Bài viết chỉ mang tính tham khảo và phổ biến. Nếu bệnh ở mức độ nhẹ và điều trị đúng hướng dẫn trong bài viết thì người bệnh có thể tự điều trị được cho mình. Nếu bệnh ở mức độ nặng, lâu ngày, điều trị không hiệu quả thì bệnh nhân gửi thông tin cho nhà thuốc để được điều trị theo hướng chuyên trị hơn.
Bấm vào đây để vào mục Câu Hỏi Cho Bệnh Viêm Xoang. Bấm vào đây để đến mục Gửi Bệnh Án để điền thông tin gửi đến nhà thuốc.
VIÊM XOANG
Khái Lược:
Trong Đông y, f88bet viêm xoang thuộc phạm vi các chứng như: “tỵ uyên” (鼻渊), “não lậu” ( 脑漏 ), “não sấm” ( 脑渗 ), “não tả” ( 脑泻 ),“lưu thế” ( 流涕 ), “não sa” ( 脑砂 ), “khống não sa” ( 控脑砂 ), “tị đồi” ( 鼻颓 ), “não băng” ( 脑崩 ).
Để tiện cho việc chuyển tải thông tin, chúng tôi tạm dùng từ phổ thông là “viêm xoang” trong suốt nội dung bài viết.
Thông thường viêm xoang sàng bẩm sinh hoặc khuyết tổn xoang bướm, hộp sọ trước và trong hộp sọ bị nứt, hoặc tổn thương sau phẫu thuật, đều có thể xuất hiện tình trạng dịch xuất ra theo đường mũi, trong trường hợp này Đông y gọi là “não lậu” xét về bản chất có khác nhau.
Trong thiên “Khí Quyết Luận” sách Tố Vấn chép: “Nhiệt tà ở Đởm đi vào não, sống mũi đau, chảy nước mũi” ( Đởm di nhiệt ư não, tắc tân át tỵ uyên -胆移热于脑,则辛頞鼻渊 ), hoặc như trong thiên “Chí Chân Đại Luận” chép: “Biến chứng bệnh ở kinh Thiếu dương nếu nặng thì đi vào Phế khiến ho và chảy nước muỗi” ( Thiếu dương chi biến, thậm tắc nhập Phế, khái nhi tỵ uyên -少阳之变,甚则入肺,咳而鼻渊 ).
Trên lâm sàng hiện đại phân viêm mũi ra thanhfd 3 loại: Viêm xoang cấp tính, viêm xoang mạn tính và viêm xoang trẻ em. Do tính chất đa dạng của viêm xoang trẻ em nên trong bài viết này chỉ đề cập đến hai loại là viêm xoang cấp tính và viêm xoang mạn tính.
I) Viêm Xoang Cấp Tính
-
Biểu hiện lâm sàng:
a) Đau nhức và đau đầu:
Người bệnh thường có cảm giác đầu nặng nề, đau âm ỉ, khi cúi đầu, dùng lực, chạy nhảy, hỷ mũi và ho đều đau tăng. Đồng thời còn có tính đau lan tỏa, có thể khiến vùng chung quanh đau liên đới và các cơn đau này thường có tính kéo dài.
b) Lượng nước mũi nhiều:
Nước mũi nhiều là đặc trưng của viêm xoang, cho nên viêm tên “tỵ uyên” xuất phát từ đó ( “uyên” nghĩa là vực sâu đầy nước, tỵ uyên được diễn tả như nước từ trong hố sâu chảy ra liên tục ). Trong thời kỳ bệnh cấp tính ở mức độ nặng thường có biểu hiện chảy dịch dính nhớt hoặc chảy dịch mủ trong mũi ra nhiều, vừa hỷ không hết, lại chảy dịch vào họng nhiều khiến người bệnh thường xuyên cảm thấy đàm rất nhiều, có lúc trong đàm lẫn máu hoặc mùi tanh hôi.
c) Mũi nghẹt:
Nghẹt mũi là một triệu chứng thường thấy nhất trong chứng này. Vì thanh dương không nâng lên, các khiếu khó có thể được sạch sẻ, khiến cho các chất nhầy trở trệ không thông.
d) Trở ngại khướu giác:
Chứng này thường khiến cảm giác ngửi mùi của người bệnh kém dần hoặc thậm chí mất hẳn. Đa số mang tính tạm thời, nhưng có một thiểu số có thể chuyển qua mất hẳn khướu giác. Tình trạng này là do Phế khí bất túc. Như trong thiên “Mạch Độ” sách Linh Khu có chép: “Phế khí thông với mũi, Phế hòa thì mũi mới có khả năng nhận thức được mùi thơm thối” ( Phế khí thông ư tỵ, Phế hòa tắc tỵ năng tri hương xú hỉ – 肺气通于鼻,肺和则鼻能知香臭矣 ).
2) Các Biểu Hiện Toàn Thân:
a) Phát sốt:
Nếu xuất hiện tình trạng cảm mạo tái phát hoặc sau khi viêm xoang cấp tính, thường khiến cho tình trạng phát sốt nguyên phát thêm nặng nề và kéo dài. Đối với tình trạng sốt thật sự do viêm mũi cấp tính gây ra đều không nghiêm trọng.
b) Các tình trạng khác:
ăn không biết ngon, trong mình không thoải mái, thậm chí bồn chồn. Trong tình huống này nếu có viêm xoang trán cấp tính và viêm xoang hàm trên do viêm chân răng thì có thể sẽ nghiêm trọng.
Lúc đang phát viêm xoang cấp, các vùng da lân cận và các tổ chức phần mềm có thể sẽ bị sưng đỏ, ví dụ như ở người viêm xoang trán thì ở vùng trán và khóe mắt sẽ phản ứng; người viêm xoang hàm trên thì ở hai bên gò má hoặc dưới khóe mắt phản ứng; người viêm xoang sàng thì phần trên khóe mắt trong phản ứng.
Trong chứng viêm xoang cấp, cục bộ vùng xoáng ấn vào đau, có lúc đau rất rõ.
3) Nguyên Nhân Và Cơ Chế Sinh Bệnh:
Chứng này thường là do thứ phát từ những lần viêm xoang cấp trước hoặc sau khi cảm mạo, cũng có khi do kết hợp thêm các bệnh truyền nhiễm cấp tính. Ngoài ra còn có nhiều nguyên nhân khác gây ra.
a) Phong hàn:
Sách “Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận” chép: “Phàm tân dịch, nước mũi, nước dãi nếu gặp nhiệt thì khô ráo; gặp lạnh thì tràn ra không thể tự thâu vào được. Phế khí thông ra mũi, nếu tạng này nhiễm lạnh thì lạnh từ đây đi vào mũi mà khiến tân dịch chảy ra không tự thâu vào được” ( Phù tân dịch thế thóa, đắc nhiệt tức can táo, đắc lãnh tắc lưu dật, bất năng tự thâu. Phế khí thông ư tỵ, kỳ tạng hữu lãnh, lãnh tùy khí nhập thừa ư tỵ, cố sử tân dịch bất năng tự thâu – 夫津液涕唾,得热即干燥,得冷则流溢,不能自收.肺气通于鼻,其脏有冷,冷随气入乘于鼻,故使津液不能自收 ).
b) Thực nhiệt:
Thiên “Khí Quyết Chân” sách Tố Vấn chép: “Nhiệt từ Đởm đi vào não” ( Đởm di nhiệt ư não -胆移热于脑 ); sách “Phùng Thị Cẩm Nang Bí Lục” chép: “Nếu chảy ra dịch vàng – hôi mà đau mũi thì đó là nhiệt lâu ngày không khỏi mà gây nên bệnh” ( Nhược lưu hoàng xú thủy nhi thống giả, vi nhiệt cửu nhi bất dũ – 若流黄臭水而痛者,为热久而不愈 ).
c) Ngoại hàn thúc bó nhiệt:
Sách “Y Học Chuẩn Thằng Lục Yếu” chép: “Ngoại tà đi vào cơ thể từ mặt cho nên sẽ đi vào kinh Dương minh gây át trở khiến khí không thông mà chảy ra nước mũi trong, lâu ngày chuyển đục, đó gọi là nội hàn thúc bó nhiệt” ( Tà tùng diện nhi lai, tắc nhập dương minh đạo, phật uất khí bất thông sướng, cố thanh thế thời xuất, cửu biến vi trọc, sở vị ngoại hàn thúc nội nhiệt – 邪从面而来,则入阳明脉道,怫郁气不通畅,故清涕时出,久变为浊,所谓外寒束内热 ).
d) Phong nhiệt ở Phế:
Trong thiên “Chí Chân Yếu Đại Luận” sách Tố Vấn chép: “khí hóa của hỏa trì hoãn kéo dài, nước chảy không thể đóng băng, nhiệt khí hoành hành… truyền vào Phế phát sinh ho, chảy nước mũi” ( Xích khí hậu hóa, lưu thủy bất băng, nhiệt khí đại hành,… kỳ tắc nhập phế, khái nhi tỵ uyên -赤气后化,流水不冰,热气大行, … 其则入肺,咳而鼻渊).
e) Hỏa ở thái dương – đốc mạch:
Sách “Cảnh Nhạc Toàn Thư” chép: “Chứng tỵ uyên, nói tóm lại là do hỏa mạnh ở Thái dương – Đốc mạch, đi lên vào não khiến tân dịch ra không ngừng, cho nên còn có tên gọi là não lậu” ( Tỵ uyên chứng, tổng do thái dương – đốc mạch chi hỏa, thậm giả thượng liên ư não nhi tân tân bất dĩ, cố hữu danh vi não lậu – 鼻渊证,总由太阳,督脉之火,甚者上连于脑而津津不已,故又名为脑漏 ).
f) Thanh dương không thăng lên:
Trong thiên “Ưu Chuể Vô Ngôn Thiên” sách Linh Khu chép: “Nước mũi từ trong mũi ra liên tục không cầm, đau âm ỉ ở trán không ngừng, mũi nghẹt” ( nhân chi tỵ động, thế xuất bất năng thâu giả, ngoan tảng bất khai, phân khí thất dã – 人之鼻洞,涕出不能收者,顽颡不开,分气失也 ). Sách “Y Triệt” chép: “Mũi thông lên với não… não là phủ của nguyên thần, mà mũi là khiếu của mệnh môn. Khi trung khí bất túc, thanh dương không thăng lên, thì đầu mang bệnh, cửu khiếu không thông” ( Tỵ, thượng thông não hộ… não vi nguyên thần chi phủ, nhi tỵ vi mệnh môn chi khiếu. Nhân chi trung khí bất túc, thanh dương bất thăng, tắc đầu vi chi khuynh, cửu khiếu vi chi bất lợi – 鼻,上通脑户……脑为元神之府,而鼻为命门之窍。人之中气不足,清阳不升,则头为之倾,九窍为之不利 ).
Trên thực tế lâm sàng thường hay gặp 4 loại sau Link Vào F88bet:
- Tà còn thừa nhập phế ( Tàn tà tập phế )
- Phong hàn.
- Phong nhiệt
- Thanh dương không thăng lên
Các chứng này chỉ cần điều trị kịp thời, hợp lý thì đa số đều khỏi. Ngược lại nếu không kịp thời, điều trị không hợp lý thì chuyển qua mạn tính.
4) Biện chứng luận trị:
a) Tàn tà nhập phế:
Bất cứ một thể bệnh nào đều phải trải qua một quá trình thời gian, nếu chứng bệnh đó cần phải được điều trị bình phục mà lại không điều chỉnh, đến một giai đoạn tái phát mạnh hơn thì cần phải cân nhắc đến một bệnh khác có liên quan. Viêm xoang thể thứ phát cũng không hoàn toàn là do tàn tà nhập phế, nhưng tà còn thừa ( tàn tà ) này cũng chỉ xuất phát tròng phạm vi của ba thể là phong hàn – phong nhiệt và thanh dương không thăng.
b) Phong hàn:
Người bệnh vốn trước đó đã có phong hàn, ít mồ hôi, đầu đau, thích ấm. Vùng mũi lạnh, nghẹt mũi, nước mũi trong, chảy nước mắt, mất khả năng nghe mùi. Mạch phù – khẩn. Rêu lưỡi trắng – mỏng.
c) Phong nhiệt:
Còn gọi là thực nhiệt, hàn thiểu nhiệt đa ( hàn ít nhiệt nhiều ). Triệu chứng mồ hôi nhiều, đầu đau, miệng khô thích uống mát, đại tiện khô cứng. Mũi tắc không nặng, nước mũi dẻo – vàng. Rêu lưỡi mỏng – vàng, sắc lưỡi đỏ. Mạch phù – sác hoặc đại.
d) Thanh dương không thăng lên:
Trong trường hợp này đa phần viêm xoang phát sau 7 – 10 ngày, nước mũi chảy liên tục, nghẹt mũi nặng, đầu đau, đồng thời có thể xuất hiện chóng mặt, mắt nhìn lờ mờ, tai lùng bùng, miệng dính nhớt. Rêu lưỡi trắng, mỏng, nhớt. Thân lưỡi mềm, mập. Mạch nhu hoặc nhuyễn.
5) Điều trị bên trong:
a) Phong hàn:
Pháp trị cần tân ôn giải biểu. Phương thang thường dùng như Kinh Phòng Bại Độc Tán kết hợp với Thương Nhĩ Tử Tán. Các vị thường dùng như: Kinh giới, Phòng phong, Sài hồ, Tiền hồ, Bạch chỉ, Thương nhĩ tử, Cát cánh, Tân di.
b) Phong nhiệt:
Nếu nhẹ thì dùng pháp thanh nhiệt giải độc. Phương thang thường dùng như Ngân Kiều Bại Độc Tán hợp với Ngũ Vị Tiêu Độc Ẩm. Nếu nặng thì dùng các vị đắng – lạnh để tả hỏa, phương thang thường dùng như Hoàng Liên Giải Độc Thang hoặc Long Đởm Tả Can Thang, có thể kết hợp dùng thêm Thương Nhĩ Tử Tán. Các vị thường dùng như Kim ngân hoa, Liên kiều, Bạc hà, Cúc hoa, Bồ công anh, Ngư tinh thảo, Hoàng cầm, Lô căn, Cát cánh, Thương nhĩ tử, Bạch chỉ.
c) Thanh dương không thăng lên:
Pháp trị thường là “thăng thanh hóa trọc”. Phương thang thường dùng như Hoắc Hương Chính Khí Tán hợp dùng với Thương Nhĩ Tử Tán, gia thêm Thăng ma, Sài hồ, Cát căn, Màn kinh tử.
d) Tàn tà tập phế:
Căn cứ vào tình hình cụ thể để áp dụng 3 pháp trên.
6) Phép Trị Ngoài:
Trong sách Tiên Tỉnh Nho Y Học có bài thuốc: “dùng vừng đen ( mè đen ) rang chín, giã nát, bỏ rượu vào lọ gốm nấu cho nóng, bỏ vừng vào, bịt kín, dùng một ống hành ( có thể dùng ống hút ) cắm vào miệng lọ, hít lấy hơi. Hít bên không nghẹt. Nếu hư hàn thì dùng rượu, hư nhiệt thì dùng dấm.
II) VIÊM XOANG MẠN TÍNH
Trên lâm sàng viêm xoang mạn tính tỷ lệ cao hơn viêm xoang cấp tính, trong đó viêm đa xoang và viêm toàn xoang thường thấy hơn là viêm một bên. Nhưng trong viêm xoang thì viêm xoang trán là thường thấy nhất.
Viêm xoang mạn tính đa phần do quá trình điều trị viêm xoang cấp tính không kịp thời hoặc không phù hợp khiến bệnh tái phát nhiều lần rồi chuyển qua mãn tính. Cho đến nay ranh giới giữa viêm xoang mạn tính và viêm xoang cấp vẫn chưa có khái niệm rõ ràng. Căn cứ trên các biểu hiện thường xảy ra trên lâm sàng thì thường tình trạng viêm xoang cấp tính vượt quá 4 – 6 tuần không thuyên giảm thì chuyển qua mạn tính.
1) Biểu hiện lâm sàng:
Về cơ bản tất cả các chứng trạng giống với tình trạng viêm xoang cấp tính, nhưng lại có tính tái phát liên tục, bệnh kéo dài không hết, nhưng lại không có sốt nóng lạnh như viêm xoang cấp tính. Lúc vẫn còn đang ở giai đoạn cấp tính thì tình trạng của viêm xoang mạn tính rất giống với viêm xoang cấp, nhưng mức độ có nhẹ hơn lúc phát cấp tính lần đầu, thời gian phát bệnh cũng ngắn hơn, đa số thường có các biểu hiện chính như sau:
a) Dịch nhiều:
Tình trạng dịch nhiều cũng như viêm xoang cấp tính, là một trong những chứng trạng chủ yếu. Chất dịch so với cấp tính thì dẻo và đặc hơn, đa phần đã chuyển sang màu vàng xanh, dịch có tính dính hoặc có mủ, nhưng chủ yếu vẫn là có mủ. Nhưng cũng có một số ít chất dịch lỏng, sắc xanh trắng. Viêm xoang hàm trên thì thường có mùi rất hôi.
b) Mũi tắc:
So với chứng cấp thì nghẹt nặng hơn, do niêm mạc mũi sưng và lượng dịch nhiều hơn. Ở người bệnh lâu ngày có bệnh tà ở Phế kinh thì sẽ khiến khí hư, khí có tác dụng dẫn huyết, khí hư thì huyết trệ mà sinh ứ tắc, ứ tắc ở vùng vách ngăn mũi khiến vách ngăn bị phì đại, ứ tích tụ không giải được thì vách ngăn sưng to không nhỏ lại được khiến hô hấp bị cản trở.
c) Khả năng nghe mùi giảm hoặc mất hẳn:
Do lâu ngày trọc khí xông lên khiến thanh dương không thăng, dẫn đến âm khí thịnh trong các khiếu dẫn đến xuất hiện tình trạng rối loạn ngửi mùi ở nhiều mức độ khác nhau.
d) Đau đầu:
Đau đầu thường có những đặc điểm dưới đây:
- Thường có đặc điểm có tính thời gian và định vị, lại có tính phát đau một bên. Nếu đau hai bên thì có một bên sẽ đau nhiều hơn.
- Mức độ đau không mạnh, thuộc về tình trạng đau đầu thông thường.
- Đau sẽ thuyên giảm, sau khi được ở trong môi trường yên tĩnh, ngủ đủ, nhỏ thuốc, hít hơi thuốc để dẫn lưu. Khi phát ho, nhảy mũi, gập người, cúi đầu, dùng lực hoặc đột ngột xoay chuyển đầu thì đau tăng. Nếu hút thuốc, uống rượu và bị kích động thì càng nặng hơn.
Ngoài ra do dịch mủ chảy vào trong họng và thời gian dài dùng miệng để thở, thường sinh ra kèm theo viêm họng mạn tính, từ đó khiến cho nhiều đàm, khàn giọng, cảm giác vướng, khô rít họng, đau họng, ngứa họng. Thậm chí hai tai lùng bùng, ù tai, tai kêu o o.
2) Nguyên nhân và cơ chế sinh bệnh:
Nguyên nhân gây ra viêm xoang mạn tính ngoài do viêm xoang cấp tính nhiều lần gây ra cũng còn do chính khí hư suy không thể thắng được tà khí bên ngoài đi vào. Sự tồn tại tổn thương mạn tính của chân răng hàm trên và đáy của xoang hàm trên, hoặc xoang mũi sau khi bị tổn thương và viêm nhiễm tái phát liên tục, hoặc viêm xoang có tính biến chứng đều có thể gây ra viêm xoang mạn. Cũng có thể liên quan đến các bệnh về phế quản. Thời kỳ cấp tính của viêm xoang mạn vẫn tương đồng với viêm xoang cấp, nhưng trong giai đoạn bình thường thì lại khác với viêm xoang cấp.
a) Phế khí hàn:
Ở mục “Tỵ Uyên” sách Y Triệt ( 医彻 ) có chép: “Người có hàn lãnh trong người mà ăn uống đồ lạnh thì tổn thương Phế… đều do đi vào não mà gây ra” ( Hình hàn ẩm lãnh tắc thương Phế… giai do sấm khai não hộ – 形寒饮冷则伤肺…皆由渗开脑户 ). Hoặc như sách “Y Thuần Thừa Nghĩa” ( 医醇剩义 ) chép: “Cảm mạo nặng khiến hàn khí đi vào não, mũi không thông chảy nước mũi liên tục, đó là chứng não lậu do hàn khí tổn thương” ( Cảm mạo trọng thương, hàn khí xâm não, tỵ khiếu bất thông, thời lưu trọc thế, thử hàn thương chi não lậu dã – 感冒重伤,寒气侵脑,鼻窍不通,时流浊涕,此寒伤之脑漏也 ).
b) Não nhiệt:
Ở mục “Tỵ Khẩu Chứng Luận Trị” sách Loại Chứng Trị Tài ( 类证治裁 ) chép: “Phong hàn đi vào não, uất ở đó lâu ngày mà hóa nhiệt” ( Phong hàn nhập não, uất cửu hóa nhiệt – 风寒入脑,郁久化热 ). Hay như mục “Tỵ Bệnh” sách Thọ Thế Bảo Nguyên ( 寿世保元 ) chép: “Phong nhiệt ở não ( có thể gây ra bệnh lý về mũi )” ( Phong nhiệt tại não – 风热在脑 ).
c) Đởm nhiệt:
Mục “Tỵ Uyên” sách Y Lâm Thằng Mặc ( 医林绳墨 ) chép: “Nhiệt tà ở Đởm đi vào não thì gây chảy nước mũi mà thành chứng não lậu” ( Đởm nhiệt di ư não, tắc trọc thế hạ lưu nhi thanh não lậu chi chứng -胆热移于脑,则浊涕下流而成脑漏之症 ).
d) Tân dịch hóa đàm:
Trong mục “Tỵ Môn” sách Cổ Kim Y Thống ( 古今医统 ) chép: “Tà đi vào kinh thái âm, khí của nó ẩn dồn vào trong mũi khiến tân dịch ủng trệ mà khí ở mũi không được thông điều” ( Tà thừa thái âm, kỳ khí ủng tích ư tỵ giả, tắc tân dịch ủng tắc, tỵ khí bất đắc tuyên thông – 邪乘太阴,其气壅积于鼻者,则津液壅塞,鼻气不得宣调 ).
e) Thanh dương không thăng:
Sách Y Lâm Thằng Mặc ( 医林绳墨 ) chép: “Mũi là nơi thông ra của Phế, tính ưa sạch trong mà ghét chất đục trọc. Thường thì trọc khí ( khí đục ) đi xuống dưới mà thanh khí ( khí trong ) thì đi lên, nhưng thanh – trọc không phân định rõ ràng thì đường thông ra của phế bị bế tắc” ( Tỵ giả phế chi khiếu, hỷ thanh nhi ố trọc dã. Cái trọc khí xuất ư hạ, thanh khí thăng ư thượng, nhiên thanh trọc chi bất phân, tắc khiếu khích hữu bế tắc giải yên – 鼻者肺之窍,喜清而恶浊也。盖浊气出于下,清气升于上,然而清浊之不分,则窍隙有闭塞者焉 ). Hay như sách “Thận Trai Di Thư” ( 慎斋遗书 ) cũng cho rằng: “Trong con người thì khí thanh dương đi vào đường thông ra của ngũ tạng lục phủ và không nơi nào bị ngưng trệ… thanh khí không lưu hành thì khí trọc tà mạnh lên ở các đường thông ra của tạng phủ mà sinh bệnh” ( Kỳ tại nhân thân, thanh dương chi khí, tắc lưu hành ư ngũ tạng lục phủ chi không khiếu nhi vô sở trệ ngưng… thanh khí bất hành, tắc tà trọc chi khí, đắc sung tắc ư không khiếu chi tế nhi vi hại – 其在人身,清阳之气,则流行于五脏六腑之空窍而无所滞凝……清气不行,则邪浊之气,得充塞于空窍之际而为害 ).
f) Phế khí hư hàn:
Trong sách Bách Bệnh Biện Chứng Lục ( 百病辨证录 ) chép: “Người thường hay chảy nước mũi lâu năm không khỏi là do Phế khí hư hàn” ( Nhân hữu tỵ lưu thanh thế, kinh niên bất dũ, thị phế khí hư hàn – 人有鼻流清涕,经年不愈,是肺气虚寒 ).
g) Thận não bất túc:
Trong sách Phùng Thị Cẩm Nang Bí Lục ( 冯氏锦囊秘录 ) có chép: “Nếu người thường hay chảy nước mũi nhiều, hoặc vàng hoặc trắng hoặc lẫn sợi máu như mủ, đều là do thận hư gây ra, không nên các loại thuốc quá mát để điều trị” ( Nhược hồ nhân nhi đa thế, hoặc hoàng hoặc bạch hoặc đới huyết như nùng giả, giai thận hư sở chí, bất khả quá dụng lương dược – 若乎人而多涕,或黄或白或带血如脓者,皆肾虚所致,不可过用凉药 ). Hoặc như sách Dương Khoa Tâm Đắc Truyền ( 疡科心得传 ) chép: “Chứng não lậu là do phong nhiệt hun đốt ở não khiến dịch thấm xuống, đó là chứng do thận hư… xét đến nguyên nhân thì là do thận hư không thể nạp khí về gốc khiến hỏa không được khống chế mà đi lên tác động đến Phế, từ đó khí tân dịch không hạ giáng xuống dưới được, đi vào đường thông ra của phế ( mũi ), chuyển thành nước mũi đục, đó là chảy ngược vậy” ( Não lậu, nãi phong nhiệt thước não nhi dịch hạ sấm, thử thận hư chi chứng dã… cứu kỳ nguyên, tất thận hư nhi bất nạp khí quy nguyên, cố hỏa vô sở úy, thượng bức phế kim, do thị tân dịch chi khí bất đắc giáng hạ, tịnh ư không khiếu, chuyển vi trọc tân tân, vi chi nghịch lưu hỉ – 脑漏,乃风热烁脑而液下渗,此肾虚之证也……究其源,必肾虚而不能纳气归元,故火无所畏,上迫肺金,由是津液之气不得降下,并于空窍,转为浊涕津津,为之逆流矣 ).
h) Dương hư não hàn:
Trong sách Y Phương Khảo ( 医方考 ) chép: “Chứng tỵ uyên do dương hư não hàn thường là vì phần trên của con người thuộc về dương, cho nên sáu khí dương đều hội tụ ở mặt, nếu dương khí tự hư thì âm khí lấn lên khiến não bị lạnh mà sinh chảy nước mũi” ( Dương hư não hàn tỵ uyên giả, nhân thân chi thượng, thiên chi dương dã, cố lục dương chi khí giai hội ư diện. Nhược dương khí tự hư, tắc âm khí tấu chi, lệnh nhân não hàn nhi lưu thanh thế – 阳虚脑寒鼻渊者,人身之上,天之阳也,故六阳之气皆会于面。若阳气自虚,则阴气凑之,令人脑寒而流清涕 ).
i) Trùng:
Sách Y Học Nhập Môn ( 医学入门 ) chép: “Trong mũi chảy ra nước vàng – thối, nặng thì khiến đau buốt trong não, thường gọi là “não sa”. Đấy là do có trùng ăn trong não” ( Hữu lưu xú hoàng thủy giả, thậm tắc não diệc tác thống, tục danh não sa, hữu trùng thực não – 有流臭黄水者,甚则脑亦作痛,俗名脑砂,有虫食脑 ).
Ngoài các thể bệnh như trên ra cũng còn rất nhiều nguyên nhân khác, nhưng quy nạp lại thì trên lâm sàng thường thấy nhất không ngoài 5 thể là: Phế khí hư hàn; Can đởm uất nhiệt; Tỳ hư nội thấp sinh đàm; thanh dương bất thăng; thận não bất túc. Nhưng cũng không thể phân loại một cách máy móc được, ví dụ chứng “Thận tủy bất túc” có thể chuyển hóa thành chứng “Phế khí hư hàn”; “thanh dương bất thăng” có thể khiến cho tân dịch hóa đục thành đàm; “Tỳ hư nội thấp” cũng có thể cản trở khí thanh dương đi lên… Vì vậy vấn đề điều trị trên lâm sàng cần phải tùy tình hình cụ thể mà đưa ra pháp trị thích đáng.
Bệnh viêm xoang mạn tính thường có tính chất dai dẳng, điều trị khó khăn, nhưng cũng không phải là không điều trị không khỏi. Tuy nhiên không để lại hậu quả nghiêm trọng, nhưng bệnh thường kéo dài, thường ảnh hưởng đến chức năng tiêu hóa, dạ dày, các bệnh về đường ruột, cùng các chứng khác như hồi hộp, mất ngủ, lo lắng, dễ cáu gắt, dễ bị ám ảnh…
3) Biện chứng luận trị:
a) Phế khí hư hàn:
Biểu hiện thường là mũi tắc lâu ngày không thông, thời tiết ấm thì đỡ hơn. Điều đó cho thấy ôn ấm thuộc dương, có thể khu trừ được hàn khí. Lượng nước mũi nhiều mà trong loãng không dính, đó là dấu hiệu của hàn. Các triệu chứng thường phát mạnh vào thời tiết lạnh. Các triệu chứng toàn thân tuy không rõ ràng nhưng thường cảm giác mệt mỏi, sợ lạnh ghét gió. Đại tiện lỏng nhão, tiểu tiện trong, lượng nhiều. Rêu lưỡi mỏng; mạch tế – nhược.
Pháp trị thường là ôn phế khư hàn. Các vị thuốc thường dùng như Đảng sâm, Quế chi, Tế tân, Kha tử nhục, Cam thảo, Kinh giới, Phòng phong, Cát cánh.
b) Can đởm uất nhiệt:
Biểu hiện lâm sàng thường là mũi nghẹt không nặng, nước mũi dẻo, nhiều mà đục, sắc vàng xanh, có lúc lẫn các sợi máu. Bệnh không phản ứng với thời tiết lạnh. Khi kiểm tra có thể thấy niêm mạc mũi bình thường hoặc có xung huyết ửng đỏ. Triệu chứng toàn thân thường là đau đầu mạnh, không giống với các cơn đau đầu thông thường. Đại tiện táo, tinh thần mệt mỏi dễ cáu gắt. Miệng khát muốn uống. Mạch huyền; rêu lưỡi trắng mỏng hoặc vàng mỏng, sắc lưỡi đỏ hồng.
Pháp trị cần thanh Can hỏa. Phương thang thường dùng như “Ức Can Tán”, “Đơn Chi Tiêu Dao Tán”. Các vị thuốc thường dùng như: Đơn bì, Sơn chi, Đương quy, Bạch thược, Hoàng cầm, Sài hồ, Hạ khô thảo, Sinh địa. Nếu nặng thì dùng Long Đởm Tả Can Thang.
b) Tỳ hư nội thấp sinh đàm:
Mũi tắc kéo dài, lượng nước mũi nhiều, sắc đa phần là trắng, ít vàng, chất dẻo – dính như hồ. Khả năng nghe mùi kém. Kiểm tra cho thấy vách ngăn phì đại, niêm mạc mũi thường thấy có nhiều đàm trắng, có một số trường hợp có polip. Các triệu chứng toàn thân thường là chân tay mỏi mệt, người mệt hơi thở ngắn, tiêu hóa kém, đại tiện lỏng nhão; sợ lạnh, thường dễ cảm mạo, sắc mặt không tươi, nặng thì có thể phù. Mạch nhu, rêu lưỡi mỏng, chất lưỡi non, thân lưỡi mập, sắc đỏ nhạt, cạnh lưỡi có răng cưa.
Pháp trị thường là kiện tỳ hóa thấp tiêu đàm. Các phương thang thường dùng như “Lục Quân Tử Thang”, “Sâm Linh Bạch Truật Tán Hợp Nhị Trần Thang – Tam Tử Thang”. Trong bài vị Lai bặc tử khắc với Sâm, cho nên lúc dùng cần quan tâm đến liều lượng. Các vị thường dùng như Đảng sâm, Bạch truật, Phục linh, Trần bì, Bán hạ, Cam thảo, Sơn dược, Cát cánh.
c) Thanh dương không thăng:
Nước mũi lượng nhiều mà dính, hoặc vàng hoặc trắng, nhưng không có vàng dẻo. Ngoại trừ nghẹt mũi ra ở vùng thái dương có cảm giác căng tức khó chịu. Cảm giác nghe mùi giảm trầm trọng. Triệu chứng toàn thân thường biểu hiện tinh thần mệt mỏi, tứ chi vô lực, ăn uống sút kém, trong miệng thường hay dính nhớt không sạch, đầu nặng đau đầu nhẹ. Rêu lưỡi trắng mỏng, sắc đỏ nhạt; mạch nhuyễn – vô lực.
Pháp trị thường bổ trung ích khí thăng thanh. Phương thang thường dùng là “Bổ Trung Ích Khí Thang”, “Ích Khí Thông Minh Thang”… Trong trường hợp người bệnh có tiền sử tăng huyết áp thì cần cẩn thận khi dùng. Các vị thuốc thường dùng như Sài hồ, Thăng ma, Sương bồ, Đảng sâm, Hoàng kỳ, Bạch truật, Bạch thược, Trần bì.
f) Thận tủy bất túc:
Lượng nước mũi không nhiều, sắc không nhất định, chất lỏng hoặc dẻo. Nghẹt mũi mức độ nhẹ; cảm giác ngửi mùi vẫn bình thường. Kiểm tra cho thấy vách ngăn và niêm mạc mũi bình thường. Triệu chứng toàn thân thường là chóng mặt tai ù, thắt lưng mỏi, lưng trên đau, di tinh bạch đới, miệng khô họng ráo, sốt về chiều, tâm bồn chồn, có khi lòng bàn chân tay nóng. Đại tiện khô. Rêu lưỡi đỏ; mạch tế – sác.
Pháp trị thường là bổ thận điền tủy. Phương thang thường dùng như “Lục Vị Địa Hoàng Thang”, “Tả Quy Ẩm”, “Đại Bổ Âm Hoàng”. Các vị thuốc thường dùng như Thục địa, Sơn dược, Sơn thù, Quy bản, Tri mẫu, Câu kỷ tử, Đỗ trọng, Hoàng bá.
Được viết bởi nhà thuốc Hạnh Lâm Đường